Trong xu thế phát triển của khoa học và công nghệ toàn cầu, hoạt động khởi nghiệp sáng tạo đóng vai trò quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Tuy nhiên để chuyển sang giai đoạn phát triển mới và hội nhập sâu rộng, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo vẫn còn đối mặt với rất nhiều bất cập và thách thức lớn.
Bất cập trong quản lý
Báo cáo của WB cho rằng, mặc dù đã có những thành công nhất định, song các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo (ĐMST) của Chính phủ Việt Nam còn manh mún. Hiện nay có 2 cơ quan được giao nhiệm vụ chính về hỗ trợ khởi nghiệp ở Việt Nam: Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phụ trách về chính sách ĐMST, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) và khởi nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động triển khai chính sách lại bị phân tán ở nhiều cơ quan trực thuộc, dẫn đến chồng chéo và thiếu phối hợp.
Về thiết kế và hoạt động triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp KNĐMST và DNV&N ở Việt Nam, Báo cáo của WB cho rằng còn chưa bám sát các thông lệ tốt trên thế giới. “Khác với các quốc gia phát triển, các tổ chức trung gian sử dụng vốn của Nhà nước chỉ cung cấp số lượng hạn chế các dịch vụ cho doanh nghiệp khởi nghiệp, trong khi khu vực tư nhân chưa tham gia đầy đủ trong việc thiết kế và vận hành các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, khiến cho chất lượng hỗ trợ chưa được như ý” – Báo cáo nhấn mạnh.
Khó khăn trong tiếp cận vốn
Theo Khảo sát KNĐMST năm 2023 của WB, có tới 69% doanh nghiệp cho biết họ gặp khó khăn khi tiếp cận tài chính trong quá trình phát triển. Tương tự, gần một nửa các doanh nghiệp khu vực tư nhân tham gia khảo sát Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2021 nói về khó khăn đó, cao hơn so với năm 2017. Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp, khả năng tiếp cận tài chính là vấn đề cấp thiết nhất trong những giai đoạn phát triển ban đầu khi phải làm sản phẩm khả thi tối thiểu, song hầu hết họ thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước cũng như các nhà đầu tư. Bất cập này được coi là cấp thiết nhất đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp dựa vào quyền sở hữu trí tuệ và phát triển phần cứng, do các hoạt động này đòi hỏi nhiều vốn để phát triển.
Những khó khăn, thách thức chính mà các doanh nghiệp KNĐMST tham gia khảo sát phải đối mặt (nguồn: WB 2024).
Báo cáo của WB cũng cho thấy, chương trình ĐMST lớn nhất của Việt Nam cung cấp ưu đãi thuế cho nghiên cứu và phát triển (NC&PT) tại các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, trong khi hỗ trợ ĐMST và khởi nghiệp dành cho khu vực tư nhân trong nước lại ít hơn rất nhiều khi so sánh với các quốc gia trong khu vực. Ví dụ hỗ trợ trực tiếp của Philippines dành cho ĐMST của doanh nghiệp lên đến 237 triệu USD (chiếm 0,07% GDP), trong khi Việt Nam là 69 triệu USD.
Vốn đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam đã và đang tăng nhanh trong 5 năm qua, là bằng chứng cho thấy tiềm năng phát triển của hệ sinh thái KNĐMST. Đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam đạt mức kỷ lục vào năm 2021 xét về giá trị giao dịch (1,5 tỷ USD) và số lượng các giao dịch (165), tăng đáng kể so với các năm trước đó, trước khi giảm xuống còn 634 triệu USD và 134 giao dịch trong năm 2022, do dòng vốn trên toàn cầu bị thắt chặt. Mặc dù vậy, quy mô chung của thị trường đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Singapore và Indonesia. So với mức đỉnh 165 giao dịch tại Việt Nam vào năm 2021, Singapore đạt đến 303 giao dịch.
Khảo sát doanh nghiệp KNĐMST năm 2023 của WB cho biết, chỉ có 15% doanh nghiệp tham gia được nhận vốn đầu tư mạo hiểm trước khi ra mắt sản phẩm, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ các doanh nghiệp tự huy động vốn hoặc tiếp nhận đầu tư của người thân và bạn bè trong giai đoạn phát triển ban đầu. Tình trạng thiếu vốn ở giai đoạn ban đầu là thách thức lớn hơn đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp dựa trên phần cứng, vì họ cần nhiều vốn hơn để phát triển các sản phẩm khả thi tối thiểu. Thiếu hụt “dòng vốn kiên nhẫn” – dòng vốn mà các nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư dài hạn hơn, thường là quá 5 năm, cũng được ghi nhận. Nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam đang tập trung vào phần mềm và các mô hình sao chép ý tưởng nhằm nội địa hóa ý tưởng kinh doanh cho thị trường Việt Nam; chưa có nhiều nhà đầu tư mong muốn hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng dài hạn, hoặc các doanh nghiệp có công nghệ/mô hình kinh doanh quá mới mẻ.
Khó khăn trong tìm kiếm lao động phù hợp
Báo cáo của WB cho rằng, hoạt động NC&PT ở khu vực Nhà nước chưa nổi bật và có đặc điểm là chất lượng thấp và ít liên quan đến khu vực tư nhân. Tỷ lệ phân bổ ngân sách cho NC&PT của Nhà nước ở các trường đại học và viện nghiên cứu công lập tính trên tổng chi tiêu cho NC&PT đã và đang giảm đáng kể trong thập kỷ qua, từ 74 xuống còn 72% trong giai đoạn 2011-2019. Bên cạnh đó, sản phẩm nghiên cứu của các viện nghiên cứu thuộc Nhà nước chưa theo định hướng thị trường do chưa có động lực và thiếu sự phối hợp với các doanh nghiệp.
“Mặc dù đã có những tiến triển về khả năng tiếp cận giáo dục, nhưng các trường đại học và cơ sở đào tạo chưa thực chất chuẩn bị để người lao động tương lai tham gia vào các vị trí việc làm ở những lĩnh vực công nghệ cao” – Báo cáo của WB nhận định. Qua bằng chứng phân tích gần đây của WB, 80% các tổ chức đào tạo tham gia khảo sát cho rằng, sinh viên tốt nghiệp của họ đã được chuẩn bị đầy đủ cho các vị trí công việc ban đầu, nhưng chưa đến 40% đơn vị sử dụng lao động tham gia khảo sát cho rằng, sinh viên mới tốt nghiệp đã sẵn sàng, nhất là cho các vị trí việc làm đòi hỏi kỹ năng cao. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2021 xếp Việt Nam đứng thứ 127/140 quốc gia/vùng lãnh thổ về kỹ năng phù hợp với ngành nghề của người tốt nghiệp đại học. Các doanh nghiệp tham gia phỏng vấn của WB cho rằng, các trường đại học đã làm tốt việc tạo ra những tài năng về lập trình và kỹ thuật, nhưng nhiều sinh viên mới tốt nghiệp các trường đại học và cao đẳng chưa có đủ kinh nghiệm để đảm nhiệm các vị trí việc làm trong các lĩnh vực công nghệ mới nổi như công nghệ sinh học, công nghệ nano và trí tuệ nhân tạo (AI).
Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định “Thể chế phải thông thoáng, hạ tầng phải thông suốt, quản trị phải thông minh và hợp tác, trao đổi quốc tế chặt chẽ, hiệu quả”. Chỉ khi đó Việt Nam mới trở thành một quốc gia khởi nguồn của đổi mới sáng tạo, có khả năng làm chủ công nghệ, vươn tầm khu vực và thế giới.
Đỗ Thủy – P.QLCN&TTCN